Friday, May 6, 2011

TRẠI LLĐB LANG VEI


TRẠI LLĐB LANG VEI
William R. Phillips
        Những giờ phút oai hùng nhất của trại Lực Lượng Đặc Biệt Lang Vei xẩy ra trong tháng Giêng năm 1968, trước khi trận tổng tấn công Têt Mậu Thân nổi tiếng xẩy ra. Đó là một tiền đồn biên phòng xa nhất về phiá bắc VNCH, và cũng là căn cứ lẻ loi nhất trong số sáu mươi bốn trại biên phòng do LLĐB Hoa Kỳ thiết lập, dọc theo đường biên giới nam Việt Nam với hai nước láng giềng Lào và Miên.
        Trại LLĐB Lang Vei chỉ cách biên giới Lào về hướng tây không tới một dặm và cách căn cứ Khe Sanh do Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ trấn đóng khoảng bẩy dặm. Trong tháng Giêng 1968, trong trại LLĐB Lang Vei có toán A-101 LLĐB/HK, do đại úy Frank Willoughby chỉ huy, ngoài ra còn có thêm các quân nhân LLĐB/HK: Trung sĩ nhất William T. Craig thường vụ, toán phó là trung úy Mike Wilkins, trung sĩ nhất y tá James Holt, trung sĩ Kenneth Hanna chuyên viên vũ khí, trung sĩ an ninh Peter Tiroch, trung sĩ truyền tin Emmanuel E. Phillips, trung sĩ Arthur Brooks vũ khí, trung sĩ y tá Nickloas Fragos, các binh sĩ truyền tin William G. McMurray, Franklin H Dooms và người mới gia nhập toán A-101 LLĐB là binh nhất Daniel R. Phillips, chuyên viên chất nổ.
        Tuyến phòng thủ trại trông giống như khúc xương. Trục dài theo hướng đông tây. Chu vi trại có ba lớp hàng rào kẽm gai phòng thủ. Ngoài toán A LLĐB/HK, có thêm một toán A LLĐB/VN với khoảng ba trăm Dân Sự Chiến Đấu thuộc sắc tộc Bru đóng trong căn cứ.
        Bộ chỉ huy cấp cao hơn, có nhiệm vụ trông nom trại LLĐB Lang Vei ở tận Đà Nẵng. Đại đội C LLĐB/HK (BCH/C1/LLĐB) dưới quyền trung tá Daniel Schungel.Trong năm 1967, ông ta đã gửi một lực lượng Xung Kích (Mobile Strike Force, Mike Force) ra tăng cường cho trại LLĐB Lang Vei, đặt dưới quyền xử dụng của đại úy Willoughby. Đơn vị xung kích cấp đại đội, có khoảng 160 DSCĐ người Hre do sáu quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ chỉ huy, tất cả dưới quyền trung úy Paul R. Longgrear. Lính LLĐB trong đại đội gồm có: Trung sĩ nhất Charles Lindewald, chuyên viên vũ khí nặng, trung sĩ nhất Harvey G. Brande y tá, trung sĩ nhất Earl Burke súng nặng, và trung sĩ John Early vũ khí nhẹ. Ngài ra trung úy Longgrear còn có thêm trung sĩ  y tá James L. Moreland.
        Đơn vị Xung Kích khác Dân Sự Chiến Đấu chỉ phục vụ trong những trại LLĐB gần xóm làng, và có cấp chỉ huy cùng là người trong làng. Được quân Mũ Xanh Hoa Kỳ chỉ huy trực tiếp, đơn vị Xung Kích thường được huấn luyện nhiều hơn, kể cả nhẩy dù. Họ là những đạo quân đánh thuê, có thể được đưa ra khắp các chiến trường tùy theo nhu cầu, và được trả thêm lương tùy theo số vũ khí tịch thâu được của địch.
         Với bốn quân nhân Mũ Xanh làm trung đội trưởng, ngoại trừ anh chàng y tá Moreland, trung úy Longgrear huấn luyện quân xung kích Hre rất kỹ. Người Hre đã bị mang tiếng là lười biếng và bỏ chạy khi đụng trận.
        Đại úy trại trưởng Willoughby cẩn thận phân chia nhiệm vụ cho hai sắc dân Bru và Hre ra rõ ràng. Quân xung kích người Hre được chỉ định ra nằm “tiền đồn” khoảng cách giữa trại LLĐB và biên giới Lào. Họ sẽ báo động trường hợp quân đội Bắc Việt tấn công từ bên Lào qua. Họ được lệnh phải tổ chức tuần tiễu, thám sát khu vực xung quanh chỗ đóng quân để tìm kiếm dấu vết các hoạt động của địch.
        Quân Thượng Bru trong trại được Willoughby, Craig tổ chức phòng thủ căn cứ, mỗi đại đội DSCĐ sẽ trấn đóng một góc trại. Đại đội 102 góc tây bắc, 103 tây nam, 104 đông nam, và 101 hướng đông bắc, dọc theo đường số 9 gần Khe Sanh nhất. Nằm trong khu vực chính giửa khúc xương là đại đội giỏi nhất, các trung đội 1, 2, 3 Viễn Thám người Việt Nam.
        Trại LLĐB Lang Vei có một khẩu súng cối 4,2 ly đặt ngay giữa trại, bẩy khẩu 81 ly, mười chín khẩu 60 ly đặt rải rác xung quanh căn cứ. Họ còn có thêm hai khẩu đại bác không dậy 106 ly. Trong lớp hàng rào phòng thủ xung quanh căn cứ không có mìn chống chiến xa vì cho tới lúc đó, chưa có tin tức gì về chiến xa của địch. Quân LLĐB trong trại vừa nhận được 100 ống phóng hỏa tiễn M-72 chống chiến xa.
        Về vũ khí nhẹ, trong trại có hai khẩu đại liên M-60 (mới vào thời điểm 1968), hai khẩu đại liên 50, và 39 khẩu trung liên BAR từ thời đệ nhị thế chiến. Đa số dân sự chiến đấu được trang bị súng trường Carbin M-1 hoặc M-2.
        Đại úy Willoughby cho đến ngày 14 tháng Giêng, được hứa hẹn sẽ có hai đại đội TQLC/HK sẵn sàng đến tiếp ứng bằng trực thăng hoặc bằng đường bộ, trường hợp cần thiết. Vị trại trưởng ưu tư cho rằng, chuyện tiếp cứu không phải đơn giản, đại đội TQLC đến bằng đường số 9 sẽ bị địch phục kích. Đến bằng trực thăng cũng khó khăn vì bãi đáp “nóng” với hỏa lực phòng không của địch, có thể gây nên thảm họa cho đơn vị tiếp ứng. Ngoài ra còn mấy đại đội Xung Kích Mike Force nằm chờ ở Đà Nẵng... Một quân nhân phải nghĩ đến lúc gặp trường hợp khó khăn.
        Tình hình trở nên căng thẳng, khi đại úy Willoughby cùng với toán A-101 LLĐB của ông ta nhận được tin tình báo. Họ biết rằng làng Thượng ở Khe Sanh đã phải di tản ngày 21 tháng Giêng vừa qua. Như vậy rõ ràng, quân tiếp viện TQLC từ Khe Sanh sẽ phải đến bằng phương tiện trực thăng, vì làng Thượng Khe Sanh nằm giữa căn cứ Khe Sanh của TQLC/HK và trại LLĐB Lang Vei.
        Một đơn vị xung kích Mike Force dưới quyền trung úy Longgrear đã tiến qua phần đất Lào trong lúc hăng say truy đuổi một đơn vị Bắc Việt. Đơn vị này báo cáo về cho biết tìm thấy dấu vết xích sắt của chiến xa địch. Dấu vết xe xích sắt này ngược lại với sự tin tưởng của các sĩ quan cao cấp TQLC/HK ngoài vùng I chiến thuật. Vấn đề quân đội Bắc Việt có đơn vị chiến xa trong khu vực lân cận căn cứ Khe Sanh đã trở thành sự thật.
        Buổi sáng ngày 24 tháng Giêng năm 1968, trung úy Longgrear đang chỉ huy đại đội tuẩn tiễu bỗng xuất hiện những quân nhân tả tơi thuộc tiểu đoàn 33 “Con Voi” Hoàng Gia Lào cùng với vợ con đang chạy trên đường số 9 về hướng đoàn quân LLĐB. Họ cho biết, phải “bỏ của chạy lấy người” sau khi bị quân chính quy Bắc Việt tấn công hai ngày liên tục. Căn cứ của đơn vị Hoàng Gia Lào cách biên giới không đến mười dặm.
        Trong trận tấn công đó, căn cứ Khe Sanh nhận được những lời cầu cứu tuyệt vọng từ Tchepone của quân đội Lào. Hai phản lực cơ Hoa Kỳ được lệnh đến yểm trợ nhưng thời tiết xấu bải đình lại. Vị đại tá Lào cho Willoughby biết quân đội Bắc Việt có chiến xa dẫn đầu, mở đường, cho bộ binh thuộc sư đoàn 304, 325 theo sau. Nhưng đại úy Willoughby không tin ông ta. Không thấy tổn thất trong đám quân Lào, vũ khí của họ bảo toàn không thấy được dấu vết của trận đánh. Vị đại tá Lào yêu cầu được gặp người nào “cùng cỡ” với ông ta, sau đó kéo quân, dân của ông ta ra căn cứ cũ của trại LLĐB Lang Vei tạm đóng quân.
        Đại úy Willoughby báo ngay về bộ chỉ huy C1 LLĐB ở Đà Nẵng, yêu cầu tăng cường thêm một toán quân Mũ Xanh. Sáu quân nhân LLĐB/HK ra tăng cường ngày hôm sau, cùng với đạn dược, thực phẩm và thuốc men, dụng cụ y khoa. Người Hoa Kỳ còn đem ra vật liệu, sửa chữa lại căn cứ cũ của LLĐB cho đám quân Lào tạm trú.
        Ông đại tá người Lào tự ái không trả lời thêm những câu hỏi của Willoughby, đặc biệt về đơn vị chiến xa Bắc Việt. Tình trạng bất hòa giữa hai cấp chỉ huy chấm dứt khi thiếu tá Hoadley, chỉ huy phó đại đội C Hoa Kỳ (C1 LLĐB/VN) bay đến căn cứ làm liên lạc viên với người Lào.
        Ngày 30 tháng Giêng, binh nhì Lương Đình Du, quân đội Bắc Việt đi băng qua cổng trại mà binh sĩ Bru đang ngồi gác ngủ gục, đầu hàng làm ngạc nhiên Bill Craig. Du thuộc sư đoàn 304 cho biết trung đoàn của anh ta bị tổn thất khi đụng trận với TQLC/HK ngày 20 tháng Giêng nơi làng Khe Sanh. Mặc dầu không biết rõ về đơn vị chiến xa, nhưng Du cho biết trại LLĐB Lang Vei sắp bị tấn công trong những ngày sắp tới.
        Theo lời của hàng binh Du, mới hai ngày qua, một tiểu đoàn phó cùng với toán đặc công đã vào đến sát trại LLĐB Lang Vei để điều nghiên cho trận tấn công sắp xẩy ra. Đúng ra quân đội Bắc Việt đã nhiều lần định tấn công từ lâu, nhưng đình hoãn lại, tuy nhiên trận tấn công chắc chắn sẽ xẩy ra dù sớm hay muộn. Người lính Bắc Việt sau đó được đưa đến căn cứ Khe Sanh để thẩm vấn... và TQLC/HK vẫn chưa tin rằng quân đội Bắc Việt sẽ xử dụng chiến xa để tấn công.
        Cũng trong ngày 30 tháng Giêng, có thêm hai điều quan trọng xẩy ra trong trại LLĐB Lang Vei. Một toán tuần tiễu của trại, trong lúc di chuyển khu vực lân cận sông Sê Pôn khám phá một con đường ngầm dưới mặt nước. Con đường bí mật này không thể nhìn thấy trên máy bay quan sát, thám thính, phải đến tận nơi mới biết. Chuyện khác, trung sĩ nhất John Young, một quân nhân Mũ Xanh được gửi đến căn cứ Lang Vei cũ để hướng dẫn toán thám sát người Lào đi tuần chung quanh khu vực hôm 25 tháng Giêng bị địch bắt được.
        Ngày 31 tháng Giêng, một toán tuần tiễu thuộc đại đội xung kích Mike Force, trên đường di chuyển về hướng làng Khe Sanh, đụng nhằm một đơn vị Bắc Việt và phải yêu cầu phản lực cơ lên yểm trợ. Khi được báo cáo, biết chắc địch sẽ tấn công, đại úy Willoughby quyết định, chỉ để lại một trung đội Xung Kích Mike Force nằm “tiền đồn”, phần còn lại rút về tăng cường phòng thủ trại LLĐB Lang Vei. Lúc đó qua đài phát thanh (radio), thông báo về trận tổng tấn công Tết Mậu Thân trên toàn lãnh thổ miền nam Việt Nam. Đại úy Willoughby chỉ huy căn cứ nhận thức rằng... một tai họa lớn sẽ đến với trại LLĐB.
        Năm ngày đầu trong tháng Hai năm 1968 lặng lẽ trôi qua, căn cứ vẫn tổ chức những toán tuần tiễu xung quanh khu vực như thường lệ và chờ đợi... Đó là những ngày nhàm chán, quân đội Bắc Việt đang tính toán chuyện gì? chấm những hỏa tập tiên liệu cho súng cối, hay đợi đến hôm trực thăng tái tiếp tế cho căn cứ, rồi mới ra tay.
        Vào ngày 6 tháng Hai, vị chỉ huy trưởng đại đội C LLĐB/HK, trung tá Schungel đến Lang Vei bằng trực thăng để thay cho thiếu tá Hoadley. Cũng trong ngày, thiếu úy Bailey, người có nhiệm vụ điều khiển khẩu đại bác không dật 106 ly thứ hai, được về Đà Nẵng vài hôm để lo chuyện cá nhân. Trong trại không đề cử ai tạm thay chỗ anh ta.
        Buổi sáng hôm đó (6/2/1968), trại LLĐB Lang Vei bị pháo kích bằng súng cối. Trong căn cứ các quân nhân Mũ Xanh xử dụng súng cối 4,2 inches (loại lớn) phản pháo vào những nơi tình nghi quân đội Bắc Việt đặt súng pháo kích. Đến xế chiều, trại LLĐB nhận thêm một đợt pháo kích nữa. Địch đặt súng trên rặng núi Cô Rốc từ bên Lào bắn qua. Quân trú phòng chỉ bị tổn thất nhẹ, nhưng tinh thần rất căng thẳng.
        Trời vừa xập tối, như thường lệ, trung úy Longrear ra lệnh cho một trung đội người Hre ra “tiền đồn” dưới quyền chỉ huy của hai quân nhân LLĐB/HK Lindewald và Hanna. Trung đội này chưa ra kỏi cổng trại đã nghe một loạt súng nổ vang, phải chạy ra chỗ ẩn nấp. Hai quân nhân LLĐB báo cáo lên ban chỉ huy, và đích thân trung tá Schungel ra quan sát tình hình. Hai người trung sĩ giải thích, mấy binh sĩ Hre trông thấy nhiều địch quân nên hốt hoảng.
        Trung úy Longgrear một lần nữa cho hai người hạ sĩ quan cùng trung đội người Hre phải ra “tiền đồn”, nhưng đám lính Thượng không chịu tuân lệnh. Trung tá Schungel nổi giận, trung úy Longgrear phải thuyết phục, họ mới chịu đi.
        Khoảng sáu giờ chiều, trại LLĐB Lang Vei như trải qua một cơn động đất với 50 quả đạn đại bác 152 ly, đặt từ trong rặng núi Cô Rốc bắn vào trại. Đại bác TQLC từ trong căn cứ Khe Sanh bắn trả đũa, LLĐB trong trại Lang Vei cũng phản pháo bằng khẩu súng cối lớn nhất trong căn cứ 4,2 inches. Những viên đạn pháo kích của địch rơi vào trong lớp hàng rào phòng thủ phiá nam, tuyến phòng thủ của đại đội 104 làm hai dân sự chiến đấu bị thương. Sau khi đợt pháo kích chấm dứt, trung tá Schungel cùng với cấp chỉ huy LLĐB Việt Nam, trung úy Quân và sĩ quan hành quân, thiếu úy Qúy đi xem xét lại vị trí phòng thủ căn cứ.
        Đến khoảng 7:30 tối, từ tuyến phòng thủ đại đội 104 báo cáo cho đại úy Willoughby rằng họ nghe tiếng động cơ xe cộ của địch. Ít phút sau, từ “tiền đồn”, Hanna và Lindewald cũng báo cáo nghe được nhiều tiếng động gần nơi họ đóng quân. Trại LLĐB bắn lên ba hỏa châu soi sáng, nhưng ngoài “tiền đồn” vẫn không trông thấy gì. Vài binh sĩ Hre bắn vào khoảng không gian tối tăm, mờ ảo như để làm cho họ lên tinh thần. Nơi tuyến phòng thủ đại đội 104 cũng thế, yêu cầu bắn hỏa châu soi sáng.
        Nên nóc hầm chỉ huy (trung tâm hành quân), có một đài quan sát, lúc đó Fragos đang làm nhiệm vụ, cũng cảm thấy căng thẳng tinh thần. Fragos cũng chẳng thấy gì khác thường cho đến lúc sau nửa đêm. Anh ta trông thấy hỏa châu bắn lên rất gần phòng tuyến phiá nam của đại đội 104 đường đi đến làng người Bru Lang Troai. Lần này Fragos trông thấy hai bóng đen đang cắt lớp hàng rào kẽm gai trước hai chiếc “xe” và nhận ra ngay chiến xa của địch.
        Lập tức, người lính Mũ Xanh la lớn vào tay cầm máy truyền tin, báo cáo cho trại trưởng Willoughby “Mình có chiến xa (đến thăm) nơi hàng rào”. Ngay lúc đó, các binh sĩ đại đội 104 nổ súng bắn hạ hai địch quân đang cắt hàng rào. Một chiến xa Bắc Việt chiếu đèn rọi ánh sáng trắng rồi tiến tới, cán bừa lên lớp hàng rào kẽm gai.
        Báo cáo trên máy truyền tin chưa đủ, Fragos leo xuống khỏi đài quan sát, vào hầm chỉ huy báo cáo cho cấp chỉ huy Willoughby và “cái Nỏ” (Crossbow), danh hiệu của trung tá Schungel. Trung tá “Crossbow” nói đại úy Willoughby ở lại hầm chỉ huy còn ông ta đi theo Fragos ra quan sát tình hình.
        Đó là một khúc quanh quan trọng cho trại Lực Lượng Đặc Biệt. Một trận tấn công bằng chiến xa lần đầu tiên của quân đội Bắc Việt trong trận chiến tranh Đông Dương. Gay cấn hơn những lần đặc công bò vào căn cứ, mở đường cho bộ binh tấn công. Một chiến thuật mà địch quân thường dùng.
        Ra khỏi hầm chỉ huy, trông thấy tận mắt rõ ràng chiến xa Bắc Việt, trung tá “Crossbow” ra lệnh cho đại úy Willoughby gọi phi cơ, pháo binh yểm trợ trên con đường đi Lang Troai ngay tức khắc. Ông ta ra lệnh thêm, xin máy bay thả hỏa châu soi sáng chiến trường và mở máy truyền tin trên hai tần số báo cho căn cứ TQLC Khe Sanh và BCH/C1 ở Đà Nẵng. Tiếp theo, ông ta ra khỏi hầm chỉ huy, lấy binh sĩ lập mấy toán “diệt chiến xa”.
        Trong khi đó, chiếc chiến xa Fragos trông thấy đã ngừng lại, bắn giết với binh sĩ đại đội 104. Chiến xa Bắc Việt này là một trong số mười một chiếc tham dự trận tấn công trại LLĐB Lang Vei sáng sớm ngày 7 tháng Hai năm 1968. Loại do Trung Cộng chê tạo dựa theo mẫu chiến xa lội nước Piavaiuschiij, PT-76 của Nga Sô. Loại chiến xa này nặng khoảng 15 tấn, đại bác 76 ly có thể bắn với nhịp độ 15 viên một phút. Chiếc này dùng đại bác cùng với đại liên 7.62 ly bắn xối xả vào phòng tuyến đại đội 104.
        Trung tá “Crossbow” ra lệnh cho Fragos lên đài quan sát đem ống phóng M-72 xuống. Ông ta là người đầu tiên dùng ống phóng M-72 bắn vào chiến xa địch, nhưng không ăn thua. Loại này được chế tạo nhẹ để lội nước, không chịu nổi vũ khí chống chiến xa, nhưng binh sĩ xe tăng Bắc Việt gắn thêm lớp sắt thép bảo vệ bên ngoài, nên không sao.
        Trong hầm chỉ huy, đại úy Willoughby ra lệnh cho binh nhất hiệu thính viên Dooms báo cáo chiến xa địch tấn công trại LLĐB về Khe Sanh và BCH/LLĐB ở Đà Nẵng. Thủy Quân Lục Chiến trong căn cứ Khe Sanh nghi ngờ quân LLĐB đã rút lui ra khỏi căn cứ nên yêu cầu xác nhận. Dooms trả lời bằng cách gọi thẳng trung tâm phối hợp hỏa lực pháo binh trong căn cứ Khe Sanh. Người ngồi nghe trong căn cứ Khe Sanh là trung sĩ Tom Gagnon, anh ta cũng chưa tin yêu cầu xác nhận chiến xa địch đã vào tới hàng rào phòng thủ trại LLĐB. Dooms lên tiếng xác nhận.
        Đại úy Willoughby bận rộn trả lời, điều động “tiền đồn” Mike Force do Lindewald và Hanna chỉ huy, đồng thời nhận báo cáo của đại đội 101 cho biết, thêm hai chiến xa địch đang di chuyển trên đường số 9 từ hướng đông vào tuyến phòng thủ của đại đội. Thêm báo cáo khác gửi về, bốn chiến xa khác từ bên Lào (hướng tây) cũng đang tiến về hướng đông trên đướng số 9.
        Người hiệu thính viên Dooms tức giận nhưng vẫn cố thuyết phục TQLC trong căn cứ Khe Sanh tin vào những điều báo cáo là đúng sự thật. Khi anh ta nói, mình nghe được tiếng động cơ chiến xa, họ cho rằng tiếng nổ của máy phát điện. Đại úy Willoughby vừa trấn an các đơn vị vẫn cố gắng liên lạc với phi cơ quan sát đang bao vùng (FAC) để xin yểm trợ.
        Cuối cùng TQLC trong căn cứ Khe Sanh mới đồng ý cho pháo binh của họ bắn yểm trợ cho trại LLĐB Lang Vei, sau khi mười bẩy phút quý báu đã trôi qua. Thực ra căn cứ Khe Sanh lúc đó cũng đang bận phản pháo vào mấy vị trí tình nghi đặt đại bác của địch trong rặng núi Cô Rốc. Quả đạn đầu tiên từ căn cứ Khe Sanh rơi vào đúng giữa trại LLĐB nhưng may mắn không ai bị thương, và họ đã điều chỉnh tác xạ, những quả sau rơi chính xác vào vị trí địch quân.
        Khi trận tấn công bắt đầu, trung sĩ Craig đang trằn trọc, giật mình vội đánh thức binh nhất Dan Phillips dậy, rồi cả hai chạy nhanh ra vị trí khẩu súng cối 81 ly, tác xạ vào vị trí bốn chiến xa địch đang di chuyển trên đướng số 9 về  hướng đông, theo sau là lính bộ binh Bắc Việt.
        Đang hăng say, một quả đạn súng cối của địch rơi gần vị trí khẩu cối 81 ly của hai người lính Mũ Xanh. Cả hai bị sức ép ngã xuống, ù tai, Craig bị ra máu lỗ tai, Phillips bị một miểng bay sớt qua, chảy máu gần mắt. Trung sĩ Brooks đang thủ khẩu đại liên gần đó chạy lại, nhưng cả hai người đều nói Brooks trở về chỗ khẩu đại liên vì họ vẫn còn chiến đấu được. Tiếp theo kho nhiên liệu trúng đạn bốc cháy, ngọn lửa chẩy ra đến gần ụ súng cối 81 ly, Craig nói Phillips bỏ chạy lại ụ súng cối 4,2 inches. Tại đây đã có mặt Tiroch, Dooms, Thompson và Burke.
        Sau khi trung tá “Crossbow” bắn phát M-72 đầu tiên, các quân nhân LLĐB Việt Mỹ chạy lại tiếp tay với ông ta, kết hợp thành một toán “diệt chiến xa” gồm có: trung úy Longgrear, trung úy Quý, MacMurray và Wilkins.
        Trước đó trung úy Longgrear, Early đang ngồi nghỉ trong một ụ súng cối 81 ly khác, cách hầm chỉ huy khoàng 200 thước, nơi vị trí tuyến phòng thủ đại đội 104. Nhờ hỏa châu, đại đội này quan sát thấy rõ bãi chiến trường, báo cáo về BCH trại cho biết, thêm ba chiến xa của địch cùng với lính bộ binh Bắc Việt đang di chuyển trên con đường đất dẫn đến làng Thượng Lang Troai. Họ vội vàng bắn thêm đạn chiếu sáng cho đại đội 104.
        Trung úy Longgrear cùng với một người lính Mũ Xanh xách ống phóng M-72 chạy ra khỏi ụ súng cối. Mặc dầu nhiều sương mù, anh ta nhận ra được mầu cam đỏ chiến xa Bắc Việt cùng với đạn lửa xanh bắn ra từ khẩu đại liên trên chiến xa. Chiếc PT-76 đã qua được lớp hàng rào phòng thủ thứ nhất, đang băng qua lớp phòng thủ bên trong, hướng thẳng vào ụ súng cối 81 ly. Longgrear dương ống phóng M-72, nhắm vào chiến xa, bóp cò nhưng không nổ, Early đưa cho chàng ống phóng hỏa tiễn khác, quả hỏa tiễn 66 ly trúng vào mũi chiến xa rồi đi ngược lên không đi xuyên qua lớp thép ở trước mũi chiến xa.
        Ba người bỏ chạy, trong khi chiếc chiến xa Bắc Việt vẫn xông tới ụ súng cối 81 ly. Early chạy về hướng hầm chỉ huy ở chính giữa trại. Longgrear ra lệnh cho Thompson ra tiếp tay với Brande, chỉ huy đại đội 104 mà anh ta nghĩ rằng đã bị thương. Còn lại một mình, Longgrear chạy lại, nhập vào nhóm “diệt chiến xa” của trung tá “Crossbow”.
        Vẫn chưa đến một giờ sáng, hai quân nhân Mũ Xanh Holt và Burke đang thủ khẩu đại bác không dật 106 ly duy nhất trong trại LLĐB. Họ xử dụng khẩu đại bác rất hiệu qủa, chống lại đoàn chiến xa của địch trên đường mòn đi đến làng Lang Troai. Trong khi đó tuyến phòng thủ của đại đội 104 đã bị chọc thủng, tình trạng đại đội này đang nguy ngập. Chiến xa cùng với bộ binh Bắc Việt đang tràn ngập vị trí của đại đội 104 dân sự chiến đấu.
        Holt đã bắn gục hai chiến xa Bắc Việt ngay trong lớp hàng rào phòng thủ bằng đại bác không dật 106 ly. Hai chiếc khác đã vượt qua được, đang tiến tới chỗ trú ẩn của trung ta “Crossbow” và trung úy Longgrear. Họ đã phải xử dụng năm ống phóng M-72 mới hạ được một chiếc tiến đến gần vị trí của họ.
        Khi chiến xa bị trúng hỏa tiễn M-72 khựng lại, không điều khiển được nữa, ba người lính Bắc Việt trong chiến xa, thủ tiểu liên AK-47, mở nắp pháo tháp nhẫy ra. Cả ba đều bị trung tá “Crossbow”, trung úy Qúy bắn hạ bằng súng tay và lựu đạn. Chiếc thứ hai đi vòng qua chiếc trúng hỏa tiễn, tiến lên tấn công toán “diệt chiến xa” bằng đại bác và đại liên. Cả toán chạy ra nấp đằng sau những thùng phi 55 gallons, đã hết nhiên liệu, chứa cát và đá như một bức tường xi măng cốt sắt. Trung tá “Crossbow” ra lệnh cho Longgrear chạy xuống hầm chỉ huy lấy thêm ống phóng M-72. Khẩu đại bác 76 ly trên chiến xa bắn tung một thùng cát đá 55 gallons, thêm một phát nữa xập nóc hầm chỉ huy (trung tâm hành quân) của trại LLĐB.
        Trung úy Longgrear chứng kiến chiếc thùng phi 55 gallons bị chiến xa bắn tung lên, anh ta nghĩ thầm trung tá “Crossbow” chắc đã chết nên báo cáo cho đại úy Willoughby. Thực ra trong bốn người cùng với trung tá “Crossbow” chỉ bị thương, mỗi mình trung úy Qúy không sao. Cũng nhờ những loạt súng của trung úy Qúy nên bộ binh Bắc Việt chưa dám xung phong thanh toán những quân nhân bị thương.
        Quả đạn đại bác nổ tung vào bức tường làm bằng những thùng phi chứa cát đá, làm cho Wilkins bị kẹt giữa những thùng phi ngất đi, McMurray bị thương nặng, mảnh đạn làm gẫy tay, mắt không nhìn được nữa. Trung tá “Crossbow” bị sức ép tung lên nhưng chỉ bị thương nhẹ nơi hông, gò má bên trái và tai. Ông ta vẫn bình tĩnh, dìu McMurray chạy ra chỗ khác, sau những lớp bao cát rồi quay trở lại cứu Wilkins. Trung úy Qúy vẫn tiếp tục bắn cầm chân địch quân, nói với “Crossbow”, phải chạy đến trú ẩn nơi một hố bom, đợi đến khi trời sáng, tìm đường thoát.
        Trong lúc hỗn loạn, trung tá Schungel “Crossbow” vẫn nhận thức được, vài chiến xa địch đã tràn vào phòng tuyến hướng tây trại LLĐB và họ sắp sửa bị tiêu diệt. Các quân nhân LLĐB Việt Mỹ, vội vàng tổ chức thêm toán “diệt chiến xa”. Một quân nhân Mũ Xanh rất can đảm, năng động, đó là Dan Phillips, đã bị thương nhưng vẫn chiến đấu, anh ta đeo sau lưng mấy ống phóng M-72 và nhiều lựu đạn. Phillips tìm cách lại gần chiến xa địch để hạ chiến xa hiệu quả hơn.
        Đến khoảng ba giờ sáng, quân Bắc Việt trong quân phục mầu xanh, đội nón sắt tràn vào bên trong căn cứ. Trung tá Schungel bàn với Wilkins lúc đó đã tỉnh táo chạy vào hầm chỉ huy, nhưng thấy không ổn vì căn hầm nhỏ khó chống cự nên hai người cùng với Bill Craig chạy vào trong dẫy nhà dành cho toán LLĐB/HK. Họ chia nhau ra mấy lỗ châu mai, tử thủ bên trong.
        Khoảng 3:30 sáng, phi cơ bao vùng vẫn tiếp tục thả hỏa châu soi sáng bãi chiến trường. Từ trong nhà, Schungel nhìn ra thấy rõ năm lính Bắc Việt với súng AK-47 và bộc phá, ông ta bắn ra và lính Bắc Việt bắn trả lại làm ông ta bị thương lần nữa nơi chân trái. Sau đó Schungel cùng với Wilkins chạy ra bãi đổ vật liệu phế thải và ẩn náu ở đó.
        Trong khi đó, Craig cùng với Tiroch và khoảng 50 dân sự chiến đấu chống trả quyết liệt. Nhóm này bị địch quân đẩy lui dần về phiá đông bắc căn cứ. Sau đó họ chia ra từng nhóm nhỏ, chui ra khỏi lớp hàng rào phòng thủ, rút về căn cứ cũ của trại LLĐB Lang Vei. Các quân nhân LLĐB khác cùng với các dân sự chiến đấu lui dần lên hướng bắc, rồi tìm cách rút ra khỏi căn cứ.
        Nhóm của Craig ra khỏi lớp hàng rào bên trong, định vượt lớp bên ngoài thị bị địch phát giác bắn xối xả phải lui trở lại. Craig, Tiroch cùng với khoảng mười quân nhân LLĐB/VN kẹt lại. Lợi dụng ánh hỏa châu vừa tắt, nhóm này chạy ra khỏi căn cứ, nấp sau một bụi tre. Trên bầu trời, phi cơ thả bom xuống trại LLĐB, miểng bom làm bị thương hai quân nhân LLĐB/HK và một Việt Nam. Họ tạm thời tìm chỗ trú ẩn qua đêm, đợi khi trời sáng sẽ đi về căn cứ Khe Sanh.
        Tình hình trong trại càng bết, quân Bắc Việt đã gần như làm chủ căn cứ. Hai chiến xa Bắc Việt đã bắn xập hai ngõ ra vào hầm chỉ huy. Một qủa đạn đại bác 76 ly làm hai quân nhân Mũ Xanh Early và Moreland bị thương nặng. Đại úy Willoughby chỉ huy trại LLĐB Lang Vei lúc đó không biết còn bao nhiêu người sống sót. Ông ta bị kẹt bên trong hầm chỉ huy, bên ngoài cũng không vào được nếu chưa thanh toán được hai chiếc xe tăng Bắc Việt.
        Trong hầm chỉ huy ngoài Willoughby ra, còn có: Longgrear, Emmanuel Phillips, Brooks, Early, Morehead, Fragos, Dooms, sĩ quan chỉ huy toán A LLĐB/VN, đại đội trưởng 104, người thông ngôn và nhiều dân sự chiến đấu.
        Trong lúc tuyệt vọng, đại úy Willoughby gọi căn cứ Khe Sanh, yêu cầu cho pháo binh tác xạ ngay trên đầu ông ta. Ông ta cũng yêu cầu cấp cứu vì tình thế đã “hết thuốc chữa”. Thủy Quân Lục Chiến thỏa mãn yêu cầu pháo binh, nhưng không thể đưa quân đến tiếp cứu được (sự thật TQLC sợ bị phục kích trên đường di chuyển từ Khe Sanh đến trại LLĐB Lang Vei lúc trời vẫn còn tối). Đi đường vòng cũng không được vì lộ trình xa hơn và vẫn có thể bị phục kích. Trực thăng không thể đổ quân xuống trại LLĐB được vì địch đã vào được bên trong.
        Sự từ chối không đi cứu làm cho vị chỉ huy trưởng tất cả các đơn vị LLĐB/HK tại Việt Nam, đại tá Jonathan F. Ladd tức giận. Ông ta gọi điện thoại vào Saigon, yêu cầu được nói chuyện trực tiếp với đại tướng Westmoreland. Tướng Westy, thức dậy duyệt xét tình hình và trả lời, ông ta không có quyền thay đổi quyết định của cấp chỉ huy trận điạ. (Trong quyển sách “Soldier Report” của ông ta. Tướng Westmoreland rất buồn về chuyện này. TQLC/HK là một quân chủng, có hệ thống chỉ huy hàng dọc của họ... cũng vì lý do đó, tướng Westmoreland xin về hưu khi đã lên chức Tham Mưu Trưởng Lục Quân).
        Lính Bắc Việt đến bao vây xung quanh hầm chỉ huy và kêu gọi bằng tiếng Việt lên đầu hàng, nếu không họ sẽ cho chất nổ phá xập căn hầm. Các binh sĩ Thượng đã chiến đấu rất can đảm từ lúc đầu, nhưng họ đã cảm thấy đã đến lúc phải ra đầu hàng. Các quân nhân LLĐB vẫn tin họ có thể bất ngờ xông ra, do trung úy Longgrear dẫn đầu, tìm đường sống.
        Trung úy Longgrear nấp một bên vách hầm, khi các binh sĩ người Thượng bới đống gạch vụn chui ra ngoài hầm chỉ huy. Lính Bắc Việt gờm sẵn tiểu liên AK-47, tịch thu vũ khí, bắt mấy tù binh cởi áo.
        Lúc trời bắt đầu sáng Craig và Tiroch vẫn còn nghe tiếng súng, đó đây. Hai người di chuyển đến một chỗ kín đáo nhìn vào trong trại LLĐB quan sát. Họ trông thấy trung sĩ nhất Ashley, trung sĩ y tá Allen, cùng với binh nhất Johnson đang chỉ huy một toán quân người Lào từ căn cứ cũ trên đường kéo về tiếp cứu trại LLĐB Lang Vei. Ba quân nhân LLĐB/HK được biệt phái làm việc với người Lào khi họ di chuyển đến trại LLĐB cũ. Họ đã thuyết phục được vị đại tá Lào cho một toán quân đi theo ba người lính Mũ Xanh Hoa Kỳ.
        Quân đội Bắc Việt đã hoàn toàn làm chủ căn cứ, đến phiên họ phải giữ. Khi toán quân Lào vừa vào đến gần hàng rào phòng thủ, bị đại liên chạy trở lại đường số 9 củng cố lại đội ngũ để phản công đợt hai. Craig và Tiroch rời chỗ núp, chạy xuống nhập vào đoàn quân đi cứu viện. Lần này địch pháo kích bằng súng cối làm đám quân người Lào bỏ chạy luôn. Lúc đó vào khoảng mười một giờ sáng, cố gắng cuối cùng giải cứu trại LLĐB Lang Vei thất bại.
        Trung tá “Crossbow” Schungel cùng với Wilkins trốn nơi chứa vật dụng phế thải cũng bò ra khỏi căn cứ đến được chỗ an toàn. Họ làm dấu hiệu nhận quân bạn khi một phi cơ quan sát bao vùng bay ngang qua. Lúc đó, trung tá Schungel chỉ biết ông ta và Wilkins là hai người sống sót, còn số phận những người khác hoàn toàn không rõ.
        Cả hai người đều bị thương, bước đi rất khó khăn. Trung tá Schungel được một quân nhân LLĐB/VN dìu bước đi trên đường số 9, sau đó gặp Craig và anh ta cõng vị trung tá LLĐB/HK đến căn cứ cũ, nơi có uân Lào đang trấn giữ.
        Sau khi được băng bó vết thương, Schungel lên máy truyền tin liên lạc với hầm chỉ huy trong trại và nói chuyện được với đại úy Willoughby. Họ đồng ý sẽ gọi khu trục cơ thời đệ nhị thế chiến A-1 Skyraiders đánh bom vì loại máy bay này, bay chậm nên thả bom chính xác hơn các phản lực cơ.
        Willoughby liên lạc với phi cơ quan sát để trận oanh kích hiệu qủa, rồi cả nhóm quân nhân LLĐB Việt Mỹ sẽ tìm cách chiến đấu chạy thoát ra ngoài căn hầm. Trong số những quân nhân sống sót trong hầm chỉ huy, chỉ có hai người không bị thương. Riêng Morehead bị thương nặng nơi đầu, và họ quyết định phải bỏ lại. Trung úy Longgrear đi đầu mở đường, đại úy Willoughby cùng với Emmanuel Phillips cõng Early.
        Nhờ các phi cơ đánh bom, quân Bắc Việt không ngóc đầu lên được, nên cả nhóm thoát được ra ngoài, leo lên một xe Jeep do trung úy Qúy lái chạy thật nhanh đến căn cứ LLĐB cũ. Trung tá Schungel gọi trực thăng đến bốc tất cả về Khe Sanh.
        Một đoàn trực thăng khác cùng với trực thăng võ trang Cobra hộ tống bay vào trại LLĐB Lang Vei. Trên trực thăng có thiếu tá Quamo, MACV-SOG (Lôi Hổ) chỉ huy một toán biệt kích đoàn Nghiên Cứu Quan Sát bay vào trại để cứu hoặc đem về những xác chết LLĐB Hoa Kỳ. Một đoàn trực thăng khác đem vào căn cứ mười quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ cùng với bốn mươi dân sự chiến đấu vào làm thành một lớp bảo vệ cho toán biệt kích MACV-SOG tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ.
        Khoảng 5 giờ chiều, quân nhân Mũ Xanh Todd chui ra khỏi hầm quân y. Anh ta chui xuống hầm chỉ huy trông thấy xác Morehead nằm chết dưới lớp cát đá. Nghe tiếng trực thăng, Todd chạy lên, và là quân nhân LLĐB cuối cùng được cứu thoát.
        Sau trận tấn công trại LLĐB Lang Vei, mười trong số hai mươi bốn quân nhân LLĐB/HK bị coi như mất tích. Vài hôm sau, xác của Burke và Ashley được tìm thấy. Thompson, Brande và McMurray bị bắt và được trả về trong chiến dịch “Trở Về Nhà” (Home Coming) năm 1973 khi Bắc Việt ký hiệp định Paris. Holt và dan Phillips vẫn còn “mất tích” cho đến ngày nay. Kể thêm hai quân nhân Mũ Xanh Lindewald và Hanna nơi “tiền đồn” và Morehead trong hầm chỉ huy... Biết chắc họ đã chết nhưng vẫn không thâu hồi được xác. Riêng Ashley được ân thưởng huy chương Danh Dự (Medal of Honor) đã chỉ huy đám quân Lào quay trở lại tiếp cứu cho trại.

Theo tài liệu: William R. Phillips “The magnificent Sacrifice”, Behind The Line magazine 1996, page: 10-21.
Dallas, Texas
vđh

1 comment: